Từ những phân loại trên cho chúng ta đi đến kết luận sự xuất hiện của bệnh vàng lùn hiện nay là do:
- Quần thể mật số cao của rầy nâu và rầy xanh làm vectơ truyền bệnh nhanh chóng và gây thiệt hại kép (vừa thiệt hại do rầy vừa thiệt hại do bệnh) là rất nghiêm trọng.
- Sự phối hợp của 3 loại virut gây hại là không thể phòng trị bằng bất kỳ biện pháp nào khi cây lúa đã bị nhiễm bệnh.
- Sự thâm canh, canh tác nhiều vụ liên tục là môi trường lây lan rất thuận lợi cho bệnh nguy hiểm này.
- Giống lúa nhiễm rầy là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển trên diện rộng.
Biện pháp phòng trị:
Do tính phức tạp của bệnh quan hệ đến nhiều yếu tố sinh thái và sự phát triển của quần thể rầy trở nên phức tạp, nên biện pháp phòng trị chủ yếu là:
1. Canh tác lúa theo phương châm 3 giảm: giảm phân đạm, giảm lượng giống gieo sạ, giảm thuốc trừ sâu để tránh bột phát rầy nâu.
2. Tuy bản thân bệnh không lây lan qua hạt giống, nước, không khí, đất và tác nhân cơ giới nhưng buộc phải cày vùi bỏ ngay những diện tích bị nhiễm bệnh trên 30% vì đây là ổ dịch lan truyền do rầy nâu mang đi.
3. Khuyến cáo nông dân không sử dụng giống nhiễm rầy trên diện rộng. Dùng giống kháng.
4. Gieo sạ đồng loạt và phải cắt vụ gieo trồng. Không canh tác liên tục các vụ lúa mà thay vào cơ cấu cây trồng khác. Vận động chuyển đổi cây trồng theo chủ trương của thành phố hiện nay theo QĐ 97-UBND ngày 10 tháng 7 năm 2006 về việc phê duyệt chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn thành phố giai đoạn 2006-2010.
5. Sử dụng thuốc hóa học trừ rầy ngay từ ruộng mạ và xử lý rầy triệt để đối với ruộng có mật số rầy cao (dập dịch).
6. Sử dụng thuốc kích kháng tăng sức đề kháng của lúa đối với virut như K2HPO4, CuCl2 để xử lý hạt; Risopla V 1-1,5 kg/ha bón lót.
Mặc dù thành phố đang khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay diện tích lúa năng suất thấp sang cây trồng vật nuôi có hiệu quả cao hơn nhưng trong quá trình chuyển đổi, diện tích lúa vẫn phải được bảo vệ để giữ thành quả lao động của nông dân, giữ vững năng suất đảm bảo cho người trồng lúa không bị thiệt hại thêm khi mà hiệu quả sản xuất còn thấp chưa kịp chuyển đổi do điều kiện sản xuất chưa tìm ra lối, chưa tìm ra cây trồng phù hợp.
Tài liệu kham khảo:
- TS Phạm Văn Dư: Bệnh vàng lùn hại lúa tại ĐBSCL, 2006.
- GS Phạm Văn Kim. Các bệnh quan trọng do virut gây ra tại ĐBSCL, 2006.
- CCBVTV TP. Bệnh lùn lúa cỏ tại thành phố Hồ Chí Minh, 2000